• Dòng Xi-tô thế giới

Tu trào đan tu

Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội bị bách hại một cách khốc liệt. Bất cứ Ki-tô hữu nào muốn tuyên xưng hay bảo vệ đức tin của mình đều phải trả giá bằng nhục hình và cái chết. Vậy nên, con đường nên hoàn thiện mà nhiều Ki-tô hữu tâm niệm và lựa chọn là con đường tử đạo, nghĩa là hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin.

Năm 313 cùng với việc trở lại của vua Contantino và chiếu chỉ Milan, Ki-tô giáo được công nhận và dần trở nên một quốc giáo. Giáo Hội trong thời gian này phát triển cách nhanh chóng và lan rộng khắp nơi, nhưng cũng đồng thời phải đối mặt với nguy cơ tục hóa. Một số Ki-tô hữu muốn rời xa thế giới nhiễu nhương để tìm gặp Chúa, từ đó xuất hiện những đan sĩ ẩn tu, mà gương mặt điển hình là thánh An-tôn tu rừng. Tiếp sau đó, hình thức đan tu cộng tu được hình thành với thánh Pa-côm-mê-ô và thánh Ba-si-li-ô.

Đầu thế kỷ thứ IV, với sự xuất hiện của thánh Bê-nê-đíc-tô (hay còn gọi là Biển Đức), phong trào đan tu cộng tu được mang một khuôn mặt mới. Kế thừa từ các truyền thống đan tu đi trước, thánh nhân đã viết nên bộ luật 73 chương nổi tiếng, thường được gọi là tu luật thánh Biển Đức. Từ đây, đan tu Biển Đức lan rộng khắp Âu Châu, và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của những nơi mà các đan sĩ đặt chân tới, đến độ người ta coi đan sĩ Biển Đức là người khai sáng cho châu lục này.

Dòng Xi-tô

Trải qua gần 6 thế kỷ phát triển mạnh mẽ, các đan sĩ dòng Biển Đức được nhiều người kính trọng, trong đó có cả giới quý tộc và lãnh đạo. Nhưng cũng từ đó họ dần bị cuốn theo một lối sống xa hoa đối lập với tinh thần của đấng sáng lập. Một đan sĩ xuất thân từ đan viện Biển Đức Cluny là Roberto cùng với các bạn là: Alberico và Stephano đã thiết lập một dòng tu mới với ý muốn trở về tinh thần khó nghèo nguyên thủy với tên gọi Xi-tô. Đây cũng là ba thánh tổ phụ của dòng Xi-tô sau này.

Các đan viện Xi-tô trải qua thời gian phát triển đầu tiên thật khó khăn. Nhưng với sự xuất hiện của một nhân vật kiệt xuất là thánh Bê-na-đô, các đan viện Xi-tô mọc lên khắp nơi, chỉ tính riêng mình thánh nhân đã thiết lập 60 đan viện. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển một cách mạnh mẽ, dòng Xi-tô cũng phải đối mặt với những thánh đố lớn lao về vấn đề tục hóa cũng như việc gìn giữ tinh thần của đấng sáng lập. 

Năm 1664, xuất phát từ đan viện Trappe, dòng Trappiste hay còn gọi là Xi-tô nhặt phép được khai sinh. Từ đây, Xi-tô được chia làm hai nhánh: một là Xi-tô nhặt phép nói trên muốn trở về với những quy luật nhiệm nhặt, khắc khổ; phần còn lại là Xi-tô chung phép bao gồm các hội dòng giữ chung “Hiến Chương Đức Ái” là bản hiến pháp mà cha thánh Stephano đóng vai trò quan trọng trong việc soạn thảo, trong khi vẫn giữ quyền độc lập cho từng hội dòng và đan viện.

  • Hội Dòng Xi-tô Việt Nam 

Hay đúng hơn gọi là Hội Dòng Xi-tô Thánh Gia, bởi hội dòng lấy thánh Gia Thất làm quan thầy bảo trợ. Được cha Herry Denis (tên Việt Nam là cha Thuận), là một nhà truyền giáo thuộc hội thừa sai Paris thành lập năm 1918. Sau 15 năm kể từ khi đặt chân đến mảnh đất Việt Nam (năm 1903), trải qua hai lần 5 năm phụ trách giảng dạy tại chủng viện An Ninh (Huế) và 5 năm coi sóc họ đạo Nước Mặn, cha Thuận đã quyết định lập một dòng chiêm niệm cho người Việt Nam với tên là dòng đức bà A Nam, tại Phước Sơn, Quảng Trị. Lúc đầu, cha có ý xin gia nhập Xi-tô Nhặt Phép (dòng Trappiste), nhưng vì những khác biệt về văn hóa, vùng miền cũng như thói quen sinh hoạt giữa người Á Đông và người Châu Âu khiến cho việc áp dụng những quy định chặt chẽ của dòng không thích hợp với người Việt Nam nên cha xin gia nhập Xi-tô chung phép với những điều kiện cởi mở hơn nhưng vẫn giữ được tinh thần nhiệm nhặt. Dòng Đức Bà A Nam đã được chính thức sát nhập dòng Xi-tô chung phép thế giới ngày 24 thánh 5 năm 1934 (sau khi ngài qua đời 1 năm, 1933), và được nâng lên bậc hội dòng ngay 6-10-1964. 

Trải qua hơn 100 năm thăng trầm cùng hoàn cảnh của Đất Nước, giờ đây, Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam có 13 đan viện: 3 đan viện nữ và 10 đan viện nam, với hơn 1000 đan sĩ chiếm gần một nửa số đan sĩ Xi-tô chung phép thế giới.

  • Đan Viện Xi-tô Thánh Mẫu Phước Vĩnh

Là một đan viện nam trong số 13 đan viện của Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam. Phát xuất từ đan viện mẹ Phước Sơn, đan viện Phước Vĩnh được thành lập ngày 24 tháng 6 năm 1975 (ngay sau biến cố 30/4/1975), tọa lạc tại ấp Thôn Rôn, xã Vĩnh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, cách thành phố Trà Vinh 20km về hướng Đông-Nam, và cách bờ sông Cổ Chiên khoảng 500m. Phước Vĩnh đang là đan viện chiêm niệm duy nhất hiện diện tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ.